Các chi Họ_Kim_lũ_mai

Họ này được chia thành 4 nhóm (phân họ) như sau:

  • Exbucklandoideae Harms: 2 chi, khoảng 7 loài. Đông Himalaya và Hoa Nam tới Sumatra.
    • Exbucklandia (gồm cả Bucklandia, Symingtonia): 3 loài chắp tay hay mã đề hà, gồm E. longipetala, E. populnea và E. tonkinensis; Đông Nam Á.
    • Rhodoleia: 6 loài hồng quang hay hồng hoa hà; Đông Nam Á.
  • Mytilarioideae H. D. Chang: 2 chi, 2 loài. Từ Quảng Tây và Hải Nam tới Lào.
    • Chunia: 1 loài, sơn đồng tài (C. bucklandioides).
    • Mytilaria: 1 loài, trám trẩu, mỹ tiên Lào, sau sau Lào, ko hao (M. laosensis).
  • Disanthoideae Harms: 1 chi, 1 loài. Đông Trung Quốc tới Nhật Bản.
  • Hamamelidoideae Burnett: 22-23 chi, khoảng 78 loài. Vùng nhiệt đới tới ôn đới, đặc biệt khu vực Đông Á tới Australia, không có ở Nam Mỹ. Phân họ này từng được Harms (1930)[9] phân chia thành 5 tông và sau đó được Shulze-Menz (1964) sửa đổi và phân chia lại. Bốn tông hiện được công nhận là theo nghĩa Endress (1989).

Một số tác giả coi chi Rhodoleia (hồng quang) như là một họ riêng của chính nó, gọi là Rhodoleiaceae, mặc dù nghiên cứu di truyền học do Angiosperm Phylogeny Group tiến hành cho thấy tốt nhất nên gộp nó vào họ Hamamelidaceae.

Các chi Tô hạp (Altingia), Sau sau (Liquidambar) và Bán phong hạ (Semiliquidambar), trước đây được gộp trong họ Hamamelidaceae, nhưng hiện nay được coi là một họ riêng gọi là Họ Tô hạp (Altingiaceae).[8][10][11][12][13] Tuy nhiên, một số tác giả vẫn coi nó là phân họ Altingioideae.[14][15]